LƯỢC SỬ 470 NĂM GIÁO HỘI VIỆT NAM & 39 NĂM GIÁO PHẬN PHÚ CƯỜNG

Hơn 2. 000 năm trước, Chúa Giêsu đã phán cùng các môn đệ: "Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Mt 28, 19-20). 

Từ sau ngày Chúa Giêsu phát lệnh truyền giáo đến nay, sứ vụ truyền giáo vẫn không ngừng được tiếp nối trong lòng Giáo Hội. 

Hôm nay, diễn lại hành trình truyền giáo 470 năm tại Việt Nam, dù chỉ lướt qua vài thời điểm quang trọng, vẫn là điều cần thiết để chúng ta sống lại những ngày gian khó của cha ông mà biết ơn tất cả những ai đã đặt nền móng đức tin trên quê hương Việt Nam thân yêu này. 

Dòng lịch sử Giáo Hội Công giáo Việt Nam có thể phân làm ba giai đoạn: Hình thành; Thử thách và Phát triển. 



GIAI ĐOẠN HÌNH THÀNH


Theo lịch sử của triều Nguyễn, vào năm Nguyên Hòa nguyên niên (1533), đời vua Lê Trang Tôn, GHVN đã bắt đầu phôi thai cùng với sự hiện diện của một giáo sĩ Tây dương tên là Inikhu. Vị Giáo sĩ đã đi đường biển vào giảng đạo Giatô ở làng Ninh Cường, Quần Anh thuộc huyện Nam Chân và ở làng Trà Lũ, thuộc huyện Giao Thủy (ngày nay thuộc Nam Định, giáo phận Bùi Chu) (Khâm định Việt sử Thông Giám Cương mục, thời Minh Mạng). 

Sau Giáo sĩ Inikhu, sử sách cũng ghi nhận thêm những nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Có những vị truyền giáo thuộc dòng Đaminh đã bị vua xứ Chiêm Thành giết chết không biết rõ vì lý do gì. 

Đặc biệt, khoảng 1664, năm nhà thừa sai dòng Đaminh đã đến Đàng Trong theo lời mời của vua Chân lạp là Srey-Sauryeper. Nhưng suốt hai năn rưởi truyền giáo, lời giảng dạy của các ngài dường như vang lên trong một khoảng không vô tận, chỉ vọng lại cho chính mình mà thôi: vẫn không một người VN nào xin rửa tội, trừ một em bé người Nhật thuộc gia đình Công giáo. 

Đồi với cái nhìn của con người, đó chỉ là thất bại. Điều đó càng chứng minh rằng, hạt giống Tin Mừng được gieo không phải trong một sớm một chiều mà có kết quả. Nhưng các nhà truyền giáo vẫn một lòng tin tưởng rằng, với chiều dài thời gian, hạt giống Lời Chúa đã gieo ấy, vẫn âm ỉ từng ngày, để khi có điều kiện cần thiết, sẽ nảy nở và trổ sinh trong lòng người. Tất nhiên, điều đó cần đến ơn Chúa và nỗ lực truyền giáo của người Kitô hữu, có khi rất gian truân, đòi hỏi nhiều công sức, sự hy sinh, kể cả mồ hôi, nước mắt và đổ máu. 

Các nhà truyền giáo hiểu rất rõ điều ấy. Các ngài không nản lòng, nhưng vẫn chờ đợi dịp thuận tiện. Vì thế mãi đến năm 1627 (tức gần 100 năm, sau ngày giáo sĩ Inikhu đến Việt Nam), cha Alexandre De Rhodes và cha Pierre Marques đã vượt biển vào Cửa Bạng, Thanh Hóa. Chính các ngài là những người đã viết nên những dấu chấm phá cho lịch sử GHVN. 



1. Cha Đắc Lộ đến Cửa Bạng lần đầu (19. 3. 1627). 


Thời vua Lê Thần Tôn (1619-1643), và Thanh Đô vương Trịnh Tráng (1623-1657), Bề Trên trụ sở truyền giáo cho vùng Viễn Đông - đặt tại Macao - quyết định sai hai linh mục dòng Tên là cha Alexandre De Rhodes (còn gọi là cha Đắc Lộ), và cha Pierre Marques đến giáo phận Đàng Ngoài. Ngày 12. 3. 1627, các ngài bắt đầu cuộc hành trình. Vì gặp bão lớn, mãi một tuần lễ sau, ngày 19. 3. 1627, các ngài mới tới Cửa Bạng. 

Cửa Bạng nằm về phía nam thành Thanh Hóa. Bài giảng đầu tiên của Cha Đắc Lộ đã làm cho dân chúng tại đây cảm mến. Cha giới thiệu đạo Đức Chúa Trời như một loại Ngọc Quý: Vì đó chính là Thiên Chúa, Cha chung của mọi người, là Đấng tạo thành trời đất, Đấng chăm sóc mọi người trên trần gian như con cái của Người. Vì thế, con người phải hiếu thảo, tôn thờ như con cái cái đối với cha mẹ. Chữ "HIẾU" quan trọng nhất, đã là người phải có hiếu. Nên ta làm con của Chúa thì phải yêu mến, thảo hiếu, tôn thờ Chúa là Cha. Lời giảng này đã thấm vào lòng dân chúng. 

Trong hai tuần chờ đợi Chúa Trịnh Tráng cho phép lên Kẻ Chợ, cha Đắc Lộ và cha Pierre Marques đã rửa tội trên 30 người, đồng thời chặt một cây to trong rừng đem về dựng làm Thánh Giá trên núi cao. Chính Cha Đắc Lộ, để kỷ niệm ngày đặt chân lên Cửa Bạng 19. 3. 1627, đã chọn thánh Giuse làm Quan thầy xứ Đàng Ngoài. 

Đến cuối năm 1627, hai cha đã gặt hái nhiều thành công tại Đàng Ngoài như: Chị của Chúa Trịnh Tráng được rửa tội, tên thánh là Catharina; lôi kéo được 17 hoàng thân, trong số đó có mẹ của bà Catharina; rửa tội 1. 200 người. 

Số người rửa tội ngày càng phát triển: năm 1628: 2. 000 người; năm 1629: hơn 3. 500 người. 
Để hỗ trợ cho công cuộc truyền giáo, cha Đắc Lộ cũng tổ chức hội Thầy Giảng, có thể coi là tiền thân của các Chủng viện sau này. Trong ba năm, nhờ sự giúp đỡ của các Thầy, cha Đắc Lộ đã rửa tội cho 6. 700 người. Trong 10 tháng vắng các linh mục, các Thầy đã rửa tội thêm 3. 340 người, lập thêm 20 nhà thờ. 

Cũng trong thời kỳ đầu này, cha Đắc Lộ bắt đầu soạn cuốn giáo lý tiếng Việt: "Phép Giảng Tám Ngày", làm tài liệu để học giáo lý cho các dự tòng. Chính trong cuốn giáo lý này, lần đầu tiên Cha Đắc Lộ phiên âm mẫu tự Latinh, gọi là chữ Quốc ngữ. 



2. Đức Cha Lambert de la Motte ở Đàng Ngoài. 


Với những bước chân khai phá của cha Đắc Lộ và các nhà thừa sai đầu tiên, Giáo Hội Việt Nam đã bắt đầu nên vóc, nên hình: hình thành được một số giáo đoàn tiên khởi. 

Năm 1649, tại Rôma, Cha Đắc Lộ đã đệ trình Đức Thánh Cha Innocente X và Thánh Bộ Truyền giáo những báo cáo hết sức lạc quan: Có khoảng 300. 000 tín hữu. Mỗi năm còn tăng thêm 15. 000 tân tòng. Chính lúc này, hơn bất cứ nơi đâu, Giáo Hội tại Việt Nam cần có Giám mục cai quản và thiết lập hàng giáo sĩ địa phương. 

Bởi thế, 10 năm sau, ngày 9. 9. 1659, Đức Alexandro VII ban hành sắc lệnh Super Cathedran thiết lập tại Việt Nam hai giáo phận: Đàng Ngoài và Đàng Trong. 

Sau khi cha Lambert de la Motte và cha Francois Pallu được tấn phong Giám mục 13. 1. 1658, thì năm 1659, các ngài được Tòa Thánh cử làm Đại diện Tông Tòa tại Việt Nam. Đức Cha Pallu coi sóc giáo phận Đàng Ngoài, và Đức Cha Lambert coi sóc giáo phận Đàng Trong. 

Tháng Giêng 1664, Đức Cha Pallu đến thủ đô Thái Lan lúc đó có tên là Ayuthia, tìm cách vào Đàng Ngoài, địa sở truyền giáo của mình. Nhưng vì cơn bách hại và những khó khăn, cũng như việc các thừa sai dòng Tên bị trục xuất, Đức Cha phải trụ lại ở Xiêm. Sau đó ngài tình nguyện trở về Rôma để vận động cho cuộc truyền giáo tại Việt Nam. Trước khi đi, ngài ủy nhiệm cho Đức Cha Lambert thay quyền ngài ở Đàng Ngoài. 

Vì thế năm 1665, Đức Cha Lambert đã kiêm nhiệm luôn chức Giám quản giáo phận Đàng Ngoài. Năm 1666 Đức Cha Lambert thừa hành nhiệm vụ của mình lần đầu tiên tại Đàng Ngoài, đó là việc sai Cha Phanxicô Deydier đến Đàng Ngoài làm cha Chính giáo phận này. 

Năm 1669, từ Ayuthia (Thái Lan), Đức Cha Lambert De La Motte đến Đàng Ngoài trước, thay vì Đàng Trong là nhiệm sở chính của mình. Một vài lý do cho thấy việc làm của Đức Cha lambert là đúng: 
  • Lúc đó có tàu công ty Đông Aán của Pháp đến Đàng Ngoài. Muốn đến Việt Nam, ngài chỉ còn cách duy nhất là lên tàu này. 
  • Đàng Ngoài có nhiều giáo dân hơn Đàng Trong. 
  • Cha Chính Deydier khẩn nài và mong đợi Đức Cha đến Đàng Ngoài gấp. 
  • Đức Cha đi Đàng Ngoài để phong chức linh mục cho các thầy đã được cha Deydier chuẩn bị. Đó là nhiệm vụ chính của Ngài: thành lập hàng giáo sĩ địa phương. 



3. Công Đồng Phố Hiến 14-02-1670


Cùng với ơn Chúa, nỗ lực truyền giáo không mệt mỏi của các Thừa Sai đã không vô ích. Thành công của các ngài từ Nam chí Bắc đòi phải có một đường lối chung, một định hướng chung, một quy luật chung nhắm đến sự phát triển của GH VN trong tương lai. 

Ví lý do đó, ngày 14. 2. 1670, Đức Cha Lambert De Lamotte đã triệu tập Công đồng đầu tiên của GH VN tại Phố Hiến, Đàng Ngoài. Với Công Đồng này, Lần đầu tiên hệ thống tổ chức GH VN được quy định thành luật. GH VN từ nay lại càng khởi sắc nhờ những định hướng như: Trao đổi chương trình hoạt động, chia vùng phụ trách, chọn thánh Giuse làm Bổn mạng Giáo Hội Việt Nam, tổ chức Nhà Đức Chúa Trời, tổ chức thầy giảng, lập hội dòng MTG, tổ chức xứ đạo với các trùm trưởng, các chức sắc. . . Đó là những điều đặc biệt mà không ai có thể tìm thấy nơi các GH khác. 

Cách riêng, đối với dòng MTG, chỉ hai ngày sau khi Công đồng Phố Hiến kết thúc, 26. 2. 1670, đã được Đức Cha ban sắc lệnh thành lập và trao một hiến pháp, đồng thời chủ tọa lễ khấn của hai nữ tu đầu tiên là chị Agnê và chị Paula tại Kiên Lao, Bái Vàng. 

Cũng vậy, tổ chức Thầy Giảng tại GHVN được cả thế giới kính phục. Các Thầy rất đắc lực trong việc dạy giáo lý, chủ sự giờ kinh, thăm viếng người bệnh, khích lệ người khô khan, nhắc nhở các trùm trưởng, rửa tội người hấp hối và cả những người khỏe mạnh, nếu vắng các thừa sai. Các Thầy là chỗ dựa của các giáo đoàn, khi các Thừa Sai bị trục xuất. Bên cạnh đó, chế độ Nhà Đức Chúa Trời, đã giúp nuôi dưỡng ơn gọi làm Thầy Giảng và cả ơn gọi làm linh mục. Tổ chức Nhà Đức Chúa Trời là nơi ươm mầm rất hiệu quả cho Giáo Hội tương lai. 



GIAI ĐOẠN THỬ THÁCH


1. Sơ lược bối cảnh lịch sử:


Mặc du GH VN ngay từ đầu đã có những khó khăn do hoàn cảnh đặc thù của mình, hoặc đây đó, đã có những Kitô hữu tử đạo, nhưng GH vẫn phát triển mạnh. Mãi đến năm 1645, sau cái chết của một người Việt Nam đầu tiên: Thầy giảng Anrê Phú Yên, lịch sử GH VN bước vào giai đoạn mới, giai đoạn bách hại của các chính quyền trong thế kỷ XVII, nhưng cũng là giai đoạn hào hùng của GH VN: giai đoạn mà hàng trăm ngàn người con của Dân Tộc và là con của GH VN, làm chứng cho đức tin bằng chính mạng sống, bằng dòng máu tươi nhuộm đỏ dải đất quê hương thân yêu này. 

Bối cảnh xã hội Việt Nam vào đầu thế kỷ XVII: Việt Nam thuộc hai thế lực Trịnh Nguyễn. Trịnh Tùng tái chiếm Thăng Long, đuổi nhà Mạc lên Cao Bằng, rồi xưng Vương và điều hành mọi việc trong nước. Còn tiên vương Nguyễn Hoàng đã vào Thuận Hóa cai quản Quảng Nam, Phú Yên, Diên Khánh. Trong thời gian này, dân Việt đã di cư lập nghiệp ở Thủy Chân Lạp, đông nhất là vùng Mỗi Suy (Biên Hòa). 

Năm 1627, Nguyễn Phúc Nguyên từ chối nộp thuế cho Trịnh Tráng, khởi đầu 45 năm Bắc - Nam phân tranh. Bảy trận chiến lớn đã diễn ra ở vùng Nghệ Tĩnh - Quảng Bình. Sông Gianh trở thành ranh giới Đàng Ngoài - Đàng Trong của Chúa Trịnh - Chúa Nguyễn. Bối cảnh này khiến các Thừa Sai gặp nhiều khó khăn và ảnh hưởng nhiều đến đời sống đức tin của các giáo đoàn Kitô hữu. 

Sự xung đột, tranh giành ảnh hưởng, phô trương quyền thế giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn, cùng với sự quan liêu chuyên quyền của tổ chức triều đình đã nảy sinh những nghi kỵ đối với các vị Thừa Sai và đối với những sinh hoạt tôn giáo của các Kitô hữu. Vì thế việc hy sinh đổ máu đối với các người con của GHVN không còn là chuyện xa lạ. 

Bởi vậy, trong giai đoạn này, cụ thể là năm 1644, Thầy Giảng Anrê Phú Yên đã bị bắt tại nhà cha Đắc Lộ, trở thành vị tử đạo người Việt Nam tiên khởi. 



2. Chân phước Anrê Phú Yên


Thầy giảng Anrê quê ở Phú Yên, là con trai út của một phụ nữ có tên thánh là Gioanna. Dù là phụ nữ góa bụa, bà giáo dục con rất khéo léo, đầy lòng tận tụy và khôn ngoan. Anrê là một cậu bé mảnh khảnh, nhưng rất thông minh, có óc phán đoán tốt và tâm hồn hướng chiều về sự thiện. 

Do lời năn nỉ của bà mẹ, cha Đắc Lộ nhận Anrê vào số các môn sinh của mình. Anrê học chữ Nho và học rất chăm. Chẳng bao lâu, cậu đã trổi vượt bạn bè của mình. 

Cậu được Cha Đắc Lộ rửa tội năm 1641, lúc đó Anrê được 15 tuổi. Năm 1642, cậu được nhận vào nhóm cộng sự viên thân tín của Cha Đắc Lộ. Sau một năm được huấn luyện về lẽ đạo, về văn hóa, Thầy Anrê chính thức tuyên khấn trong bậc Thầy Giảng. Thầy được phúc Tử đạo khi vừa tròn 19 tuổi. 

Thầy giảng Anrê chịu tử đạo trong hoàng cảnh hết sức đặc biệt. Đứng đầu nhóm Thầy Giảng ở Hội An lúc bấy giờ là Thầy Inhaxiô. Đây là một tông đồ nhiệt thành và hữu hiệu. Tuy nhiên có một người rất có thế giá lại rất ghét Thầy. Đó là Tống Thị. Bà là vợ nhỏ của Vương Tử Kỳ, con Chúa Sãi làm trấn thủ Quảng Nam. 

Năm 1631, Vương Tử Kỳ chết. Năm 1635, chúa Sãi cũng qua đời. Em của Vương Tử Kỳ kế vị cha, gọi là chúa Thượng. Tống thị ra vào với chúa Thượng như vợ chồng, đồng thời gây ảnh hưởng, lộng quyền tại triều chính. Bà đã khiến nhiều người lấy làm khó chịu. Trong số đó có Thầy Inhaxu, người đã lên tiếng phản đối việc làm của Tống thị. 

Bà đã liên kết với một viên quan lớn, có quyền thế tại Phú Yên lúc bấy giờ là quan Nghè Bộ để thực hiện ý định hãm hại Thầy Inhaxu. Cha Đắc Lộ kể: "Vào thánh 7. 1644, quan trấn tỉnh Phú Yên từ phủ Chúa về, đem theo sắc lệnh không phải của chúa, vì chúa vẫn tỏ ra thịnh tình vi tôi. Nhưng bà chúa xưa nay vốn ghét đạo như tôi đã nói, và nhất là bà thề sẽ hãm hại thầy Inhaxu. Quan trấn này tự nhận công việc vì hợp ý xấu đã có từ lâu". 

Thế là trưa ngày 25. 7. 1644, lính đến nhà cha Đắc Lộ để bắt thầy Inhaxu theo lệnh ông Nghè Bộ. Nhưng cha Đắc Lộ và thầy Inhaxu đang trên đường đến nhà quan Nghè để thăm quan vì cha vừa được tin quan từ phủ chúa trở về. Thầy Anrê hôm ấy tình nguyện ở nhà săn sóc một thầy khác bị bệnh. Khi lính lùng sục tìm thầy Inhaxu, thầy Anrê đã tự đứng ra nhận tội thay thầy Inhaxu. 

Sáng ngày 26. 7. 1644, ông nghè triệu tập phiên họp các quan để ra án tử. Và ngay hôm đó, người ta thi hành án tử đối với Thầy Anrê Phú Yên. 

Từ đàng sau, người lính đâm Thầy từ giữa hai bả vai thấu suốt ra trước ngực. Thầy quay qua chào cha Đắc Lộ. Cha bảo Thầy ngước lên trời. Trong khi đó, Thầy vẫn không ngớt kêu lên thánh danh Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Người lý hình đâm thêm ba nhát, và cuối cùng một người lính khác chém đầu cho đứt hẳn. Cha Đắc Lộ làm chứng là vẫn còn nghe thấy tên Giêsu phát ra từ cuống họng bị đứt của Thầy. 

Ngày 5. 3. 2000, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong Thầy Anrê Phú Yên lên bậc chân phước. Cách đây hai năm, Đức Thánh Cha đã nhắc đến tên chân phước Anrê Phú Yên, vị thánh trẻ của GH VN, trong sứ điệp gởi cho giới trẻ thế giới năm 2002, như một mẫu gương sống động về việc làm chứng cho Chúa Giêsu đối với đức tin của các bạn trẻ trên toàn thế giới. Đây là một vinh dự lớn lao cho Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt là cho giới trẻ Việt Nam. 



3. Đức Mẹ La Vang


Sau biến cố Tử đạo của Thầy Giảng Anrê Phú Yên, Giáo Hội Việt Nam đã trải qua một thời gian dài đầy những thăng trầm thử thách. Thời gian bắt đạo không còn được tính bằng năm, tháng, nhưng đã ghi cả một dòng lịch sử dài hàng thế kỷ.

Sống trong cảnh bị rượt đuổi, bắt bớ, bị phân tán đày đọa, bị tù đày gian nan..., nhiều nơi, để bảo toàn đức tin, người tín hữu chỉ còn một cách duy nhất là chạy trốn. 

Đặc biệt năm 1798, thời vua Cảnh Thịnh, trong lúc các Kitô hữu khắp nơi đang bị vây bắt dữ dội, thì một nhóm người Công giáo thuộc tỉnh Quảng Trị, chạy vào trong một vùng rừng thiêng nước độc hoang vu. Đó là vùng LaVang, Trà Kiệu ngày nay. Họ phải đối mặt với rất nhiều nguy hiểm như: nguy cơ bị thú dữ ăn thịt; thiếu hụt lương thực; bệnh tật lan tràn, nhất là cảnh bất an vì quân lính lùng sục khắp nơi, đêm ngày. 

Giữa cảnh khổ cực trăm bề, những người Công giáo trú trong núi rừng Lavang vẫn thúc đẩy nhau hết lòng trông cậy vào ơn Chúa. Ban đêm họ tìm gặp nhau nơi gốc cây đa để lần chuỗi, xin Đức Mẹ đoái thương cho họ sống can trường, theo Chúa kiên trung, dù phải khốn cùng vẫn không chồn chân nản bước. 

Nhận thấy đoàn con sống lòng tin đầy quả cảm. Giữa những chuỗi kinh và lời cầu nguyện sốt sắng của những người con kiên cường ấy, Đức Maria đã đến viếng thăm đoàn con của mình để an ủi họ, củng cố đức tin của họ. Khi hiện ra, tay bồng Chúa Hài đồng, Đấng mà họ quyết tâm trung thành tới cùng, dẫu cho thịt nát xương tan, Mẹ Maria đã khuyên nhủ họ hãy bền gan giữa đạo. Phần thưởng mà Thiên Chúa dành cho họ sẽ lớn lao. 

Đức Maria cũng đã nhìn thấy trong đoàn người lẫn trốn ấy, có biết bao nhiêu người đang thoi thóp hấp hối, có người thì quằn quại giữa những đau đớn của bệnh tật, kẻ thì kiệt lực vì đói đã lâu ngày..., Mẹ mách bảo họ hãy bức một loại lá trong rừng sâu làm thuốc chữa bệnh. Mẹ cũng dạy các tín hữu: "Mẹ đã nhậm lời các con kêu xin. Từ nay về sau, bất cứ ai kêu cầu Mẹ tại nơi này, Mẹ sẽ nhận lời theo như ý nguyện". 



4. Nhìn lại giai đoạn thử thách


Các thánh Tử đạo không phải là những người quá khích tự đi tìm cái chết vì đạo, mặc dù điều đó có thể xảy ra. Các thánh càng không quá khích đến độ tự đi tìm cái chết để như một cách trả thù, một phương thế ngạo ngễ vua chúa. Trước sau như một, các ngài vẫn yêu mến quê hương, vẫn tỏ lòng tùng phục và kính trọng các cấp chính quyền. Không bao giờ các thánh Tử đạo quyên cầu nguyện cho vua quan. Dường như đối với các thánh, phải tìm mọi cách để các cấp chính quyền từ vua, quan, đến quân gặp được chân lý của Tin Mừng. 

Không quá khích đã vậy, ngược lại các Kitô hữu còn có thể chạy trốn cuộc bách hại. Nghĩa là các ngài vẫn tìm mọi cách để cố giữ gìn mạng sống của mình. Nhưng khi bị bắt, các ngài làm chứng tới cùng, theo Chúa Giêsu cho tới khổ nạn và chết. 

Như vậy, các thánh Tử đạo là những người khôn ngoan, tỉnh táo, vẫn rất yêu quý mạng sống của mình. Chấp nhận chết là vì hết cách, là bước cuối cùng, chỉ vì lòng yêu mến Chúa và muốn bảo toàn đức tin mà thôi. 

Từ thái độ sống đến cái chết của các thánh Tử đạo nói riêng, và của các Kitô hữu nói chung, chứng minh cho mọi người thấy rằng, chỉ có Thiên Chúa là trên hết, là cao cả, là tuyệt đối, vượt trên tất cả mọi sự quý giá. Dẫu là sự sống, điều mà mỗi người chỉ có một duy nhất mà thôi, mất là hết, mất là chấm dứt sự hiện diện đời đời, vẫn không thể sánh bằng Thiên Chúa, Đấng là nguồn cội, là tất cả của vũ trụ. Từ sự hiểu biết về chân lý cao cả ấy, các thánh Tử đạo có một thái độ chọn lựa dứt khoát: Tin nơi Thiên Chúa đến cùng, dù phải hiến dâng cả mạng sống của mình. 




GIAI ĐOẠN TRƯỞNG THÀNH



Đêm tối nào rồi cũng đi qua. Ánh sáng của một ngày mới sẽ bắt đầu bằng buổi bình minh tuyệt đẹp. Nếu xem giai đoạn bị bách hại là đêm dài cần thiết để thử thách và tôi luyện đức tin, thì bình minh cho một thời đại mới, một chặng đường mới, một sức sống mới báo hiệu những nét tươi mới của GH VN bừng sáng. 



1. Giám mục Việt Nam tiên khởi


Những nét tươi mới đó được khởi đầu bởi một sự kiện làm nức lòng mọi Kitô hữu VN: Đó chính là sự kiện ngày 11. 6. 1933, lần đầu tiên, một linh mục VN, linh mục Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng được Đức Thánh Cha Piô XI tấn phong Giám mục tại Rôma. 

Như vậy Đức Cha JB. Nguyễn Bá Tòng là vị Giám mục tiên khởi của GH VN. Ngài được cử làm Giám mục chánh tòa giáo phận Phát Diệm. Đó cũng là giáo phận thứ nhất được trao cho hàng giáo sĩ VN. 

Một điểm khác vinh quang hết sức cho GH VN, chúng ta cần phải ghi nhận, đó là lời khen tặng mà Đức Piô XI dành cho GH VN trong lễ tấn phong Đức Cha Nguyễn Bá Tòng: "GH VN là trưởng nam của GH Công giáo tại Á Đông" (Bài giảng lễ tấn phong GM). 

Sử gia A. Launay cũng hết lời khen ngợi Đức Tin của người Công giáo VN: "Hỡi GH VN, một trong những GH đã bị bắt bớ hà khắc nhất trong các GH trên thế giới, kể từ khi công cuộc của Chúa Cứu Thế bị bắt bớ. Một trong những GH kiên cố lạ lùng nhất… Ta kính chào Người! và bởi hy sinh càng lớn lao, thì vinh quang càng sáng chói. Người thật xứng đáng được danh thơm muôn thuở, ngang hàng với những GH anh hùng nhất phương Tây" (Đã trích trong Lm Bùi Đức Sinh - Lịch Sử Giáo Hội). 

Tiếp theo sau Đức Cha GB Nguyễn Bá Tòng là hai Đức Cha:

- Đaminh Hổ Ngọc Cẩn, thụ phong giám mục ngày 29. 5. 1935 do Đức Khâm sứ Dreyer, tại Phủ Cam. Ngài được đặt làm Giám mục phó giáo phận Bùi Chu. Sau khi Đức Giám mục chính Munagori qua đời, ngài chính thức nhận quyền chính tòa giáo phận Bùi Chu năm 1936. 

- Phêrô Ngô Đình Thục, thụ phong giám mục ngày 4. 5. 1938 do Đức Khâm sứ Drapier. Ngài làm giám mục Vĩnh Long. 



2. Thành lập hàng giáo phẩm Việt Nam ngày 24-11-1960


Kể từ sau ngày Đức GM tiên khởi người VN được thụ phong, GH VN liên tục phát triển. Để đánh dấu sự trưởng thành ấy, ngày 24. 11. 1960, giữa lúc đất nước còn đang chia cắt, dưới triều đại Đức Thánh Cha Gioan XXIII, Tòa Thánh đã thiết lập hàng giáo phẩm VN. 

Từ sự kiện lịch sử này, cho ta thấy, không có bất cứ một khó khăn nào, dù phải đạp trên đầu sóng gió đến mức độ nào, GH Công giáo VN, hoặc âm thầm, hoặc công khai vẫn phát triển không ngừng. Đức tin của người Công Giáo VN như một dòng chảy, cứ âm thầm trôi giữa lòng cuộc sống. Trôi đến đâu thì lan rộng đến đó. Trôi đến đâu, lại càng thấm vào trong lòng người đến đó. Không những thấm, mà còn thấm đẫm, thấm mạnh. 



3. Dự Công Đồng Vatican II. 


Chỉ sau hai năm, kể từ ngày hàng giáo phẩm VN được thành lập, tháng 10. 1962, Đức Gioan XXIII khai mạc Công dồng Vatican II. Hàng giáo phẩm Việt Nam cũng được mời tham dự tại Công Đồng. Lần đầu tiên GH VN vinh hạnh góp tiếng nói của mình một cách chính thức tại một Công Đồng Chung, có tầm mức hoàn vũ như Đại Công Đồng Vatican II. Thật là một niềm vui khôn tả, một danh dự không dễ có bất cứ danh dự nào có thể thay thế, đối với một GH còn khá non trẻ như GH VN thời bấy giờ. 



4. Thành lập Hội Đồng Giám Mục Việt Nam 1980


Từ 24. 4 - 1. 5. 1980, các Đức Giám mục VN toàn quốc đã họp lần đầu. Trong phiên họp này, các Đức GM VN đã có quyết định quan trọng là thành lập HĐGM VN. Một quy chế HĐGM VN cũng được soạn thảo, đệ trình Tòa Thánh, đã được Tòa Thánh chấp thuận. Trong thư chung kết thúc khóa họp 1980, HĐGM viết: "Chúng tôi cũng phải cùng nhau gánh vác trách nhiệm của chức vụ GM trong tinh thần tập thể và đồng trách nhiệm. Bởi thế, việc thành lạp HĐGM VN là để phục vụ anh chị em đắc lực hơn" (Thư chung HĐGM VN 1980). 



5. Biến cố Phong Hiển Thánh 117 anh hùng Tử Đạo Việt Nam năm 1988 


Sáu năm sau ngày thành lập HĐGM VN, một biến cố vĩ đại chưa từng có tại VN từ trước tới nay, đã diễn ra: ngày 19. 6. 1980, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tấn phong cùng một lúc, 117 vị chân phước Tử Đạo tại VN lên hàng hiển thánh. 

Nếu tại Công Đồng Phố Hiến năm 1670, Đức Cha Lambert De La Motte và các linh mục hiện diện đã nhận thánh Cả Giuse làm bổn mạng của GH VN, thì năm 1980, một lần nữa, HĐGM lại ghi thêm tên tuổi của các thánh Tử Đạo tại VN là bổn mạng Giáo Hội Việt Nam. 

Từ nay trở về sau, để ghi nhớ ngày thành lập hàng giáo phẩm VN và kính nhớ thánh Bổn mạng của mình, lễ các thánh Tử Đạo VN được cử hành vào ngày kỷ niệm thành lập HĐGM VN, 24. 11 hàng năm. 

Còn nhớ bài giảng của Đức Thánh Cha trong thánh lễ phong thánh cho các thánh Tử Đạo Việt Nam. Đức Thánh Cha nói rằng: "Máu các Tử Đạo là nguồn ân sủng cho anh chị em trước tiên, để anh chị em thăng tiến trong đức tin. Giữa anh chị em, đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai. Đức tin này tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn là người tín hữu của Chúa Kitô" (số 6). 

Đúng như lời Đức Thánh Cha, Giáo Hội Việt Nam thật hạnh phúc vì được thừa hưởng một kho tàng quý giá vô cùng. Kho tàng ấy không phải trả giá bằng tiền của, bằng vật chất, nhưng đáng giá máu của hàng trăm ngàn người Công giáo Việt Nam: KHO TÀNG ĐỨC TIN. 

Một kho tàng lớn lao, quý báu vô ngần và vững chãi như núi đá ngay từ những ngày đầu tiên, đã qua suốt bốn trăm bảy mươi năm và còn tiếp tục mãi về sau, chắc chắn sẽ không dễ gì mai một, càng không dễ gì lay chuyển. Bởi thế sự khôn ngoan của loài người là hãy nhìn vào tấm bia vàng đã sống hàng trăm năm ấy mà tiếp tục vun bồi, tiếp tục dựng xây chứ đừng có thái độ ngăn cản, cấm cách. 

Và chúng ta, những người Công giáo Việt Nam, hãy noi gương cha ông của mình mà sống đức tin và làm chứng cho đức tin ấy một cách ngoan cường trong cuộc đời hôm nay, để "đức tin của tổ tiên vẫn tiếp tục và còn truyền tụng sang nhiều thế hệ tương lai". 

Hôm nay, nêu cao bài học mà các thánh Việt Nam để lại, chúng ta không khơi lên máu nóng tìm đến cái chết, mà chính là sống hiến thân từng giây phút của đời mình cho Thiên Chúa và tha nhân. 

Bởi thế, sống ơn Tử đạo hôm nay là biết chết đi những yếu đuối tầm thường, để can đảm làm chứng cho đức tin bằng sự hy sinh trong bổn phận, trong từng lời kinh nguyện, trong tất cả nếp nghĩ, nếp sống. 

Chính khi hiến thân sống ơn Tử đạo như thế, là lúc ta làm được điều mà các thánh Việt Nam đã làm: yêu quê hương, xây dựng quê hương, nhưng cũng biết mình là con cái của Cha trên trời. Bởi một lẽ không thể sai sót được: ĐỨC TIN LÀ MỘT NỀN TẢNG VỮNG CHẮC: "Đức tin này tồn tại để làm nền tảng xây dựng sự kiên trì cho tất cả những người là Việt Nam thuần túy sẽ trung thành với quê hương đất nước, nhưng đồng thời vẫn là người tín hữu của Chúa Kitô". 



6. 25 giáo phận


Chúng ta cần nhìn lại những mốc thời gian hình thành các giáo phận tại Việt Nam. Đó chính là bằng chứng lớn lao cho thấy sự phát triển của Giáo Hội Việt Nam. Kể từ ngày thành lập hai giáo phận đầu tiên là Đàng Ngoài và Đàng Trong, năm 1659, đến nay Giáo Hội Công giáo Việt Nam đã có 26 giáo phận trải dài trên khắp đất nước, chia làm ba giáo tỉnh


A. Giáo tỉnh Hà Nội: 10 giáo phận:

  1. Hà Nội: 1659. 
  2. Hải Phòng: 1679. 
  3. Vinh: 1846. 
  4. Bùi Chu: 1848. 
  5. Bắc Ninh: 1885
  6. Hưng Hóa: 1895. 
  7. Phát Diệm: 1901. 
  8. Lạng Sơn: 1915. 
  9. Thanh Hóa: 1932. 
  10. Thái Bình: 1936. 


B. Giáo tỉnh Huế: 6 giáo phận

  1. Qui Nhơn: 1844. 
  2. Huế: 1850. 
  3. Kontum: 1932. 
  4. Nha Trang: 1957. 
  5. Đà Nẵng: 1963. 
  6. Buôn Mê Thuột: 1967.

B. Giáo tỉnh Sài Gòn: 10 giáo phận 

  1. Sài Gòn: 1844. 
  2. Vĩnh Long: 1939. 
  3. Cần Thơ: 1955. 
  4. Mỹ Tho: 1960. 
  5. Đà Lạt: 1960. 
  6. Long xuyên: 1960. 
  7. Phú Cường: 1965. 
  8. Xuân Lộc: 1965. 
  9. Phan Thiết: 1975.
  10. Giáo phận Bà Rịa: 2005



IV. GIÁO PHẬN PHÚ CƯỜNG. 


1. Sự thành lập:


Được thành lập ngày 14. 10. 1965 do trọng sắc "In animo nostro" của Đức Phaolô VI. Trọng sắc có đoạn: "Khi Thánh Bộ Truyền giáo có chương trình thành lập Địa phận mới tại Việt Nam, ta liền thỉnh ý những vị liên hệ, và hôm nay, do quyền tối cao, ta quyết định và truyền những điều sau đây:

Những tỉnh dân sự, quen gọi là Phước Thành, Bình Phước, Tây Ninh nay được tách rời ra khỏi Tổng Địa phận Sài Gòn, để thành lập địa phận mới, và ta đặt tên là Địa phận Phú Cường.". 

Đồng thời Đức Thánh Cha cũng ban Trọng sắc bổ nhiệm linh mục Giuse Phạm Văn Thiên, Giám Đốc Đại Chủng viện thánh Giuse Sài Gòn làm Giám mục tiên khởi giáo phận. 



2. Các Đức Giám mục:


Từ ngày thành lập đến nay, giáo phận Phú Cường có 4 vị Giám mục cai quản như sau:
a. Đức Cha GIUSE PHẠM VĂN THIÊN (Giám mục tiên khởi 1966 - 1993). 
  • Sinh ngày: 2. 5. 1906
  • Thụ phong linh mục: 17. 3. 1934
  • Thụ phong Giám mục: 6. 1. 1966
  • Chính thức nhận giáo phận: 12. 1. 1966
  • Được chấp thuận nghỉ hưu: 10. 5. 1993
  • Qua đời: 15. 2. 1997
  • Khẩu hiệu: ƠN CHÚA Ở CÙNG TÔI 
b. Đức Cha GIACÔBÊ HUỲNH VĂN CỦA (Giám mục phó: 1976 - 1979)
  • Sinh ngày: 1. 11. 1915
  • Thụ phong linh mục: 20. 9. 1941
  • Thụ phong Giám mục: 4. 2. 1976
  • Nghỉ hưu và dưỡng bệnh: 1979 - 1995
  • Qua đời tại Nice (Pháp): 9. 1. 1995
  • Khẩu hiệu: VUA CÁC VUA, CHÚA CÁC CHÚA. 
c. Đức Cha LU-Y HÀ KIM DANH (Giám mục Chánh tòa: 1993 - 1995)
  • Sinh ngày: 2. 6. 1913
  • Thụ phong linh mục: 12. 3. 1940
  • Thụ phong Giám mục: 10. 10. 1982
  • Giám mục Chánh tòa: 10. 5. 1993
  • Qua đời: 22. 2. 1995
  • Khẩu hiệu: KIÊN NHẪN THẮNG MỌI SỰ. 
d. Đức Cha PHÊRÔ TRẦN ĐÌNH TỨ (Giám mục đương nhiệm: 1999)
  • Sinh ngày: 2. 3. 1937
  • Thụ phong linh mục: 29. 4. 1965
  • Ngày bổ nhiệm chức Giám mục: 5. 11. 1998
  • Thụ phong Giám mục do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, tại Vatican: 6. 1. 1999
  • Chính thức nhận giáo phận: 26. 1. 1999
  • Khẩu hiệu: YÊU RỒI LÀM. 



3. Vài ghi nhận khác (thống kê do các giáo xứ, giáo họ gởi về nhân cuối năm 2003). 


Giáo phận Phú Cường có diện tích: 10. 885 km². 
Hiện nay giáo phận có 7 giáo hạt:
  1. Hạt Bình Long: Giáo xứ: 12; Giáo họ: 5; Linh mục: 12; Giáo dân: 26149. 
  2. Hạt Củ Chi: Giáo xứ: 8; Giáo họ: 2; Linh mục: 13; Giáo dân: 10270. 
  3. Hạt Lạc An: Giáo xứ: 8; Giáo họ: 2; Linh mục: 9; Giáo dân: 6742. 
  4. Hạt Phú Cường: Giáo xứ: 16; Giáo họ: 15; Linh mục: 23; Giáo dân: 28294. 
  5. Hạt Phước Thành: Giáo xứ: 5; Giáo họ: 4; Linh mục: 7; Giáo dân: 9179. 
  6. Hạt Tây Ninh: Giáo xứ: 13; Giáo họ: 6; Linh mục: 18; Giáo dân: 29879. 
  7. Hạt Tha La: Giáo xứ: 4; Giáo họ: 1; Linh mục: 5; Giáo dân: 6610. 
TỔNG CỘNG: Giáo phận Phú Cường hiện có:
  • 66 giáo xứ 
  • 35 giáo họ 
  • 104 linh mục (gồm 85 linh mục coi xứ, 19 linh mục còn lại thuộc các dòng; đang hoặc chuẩn bị đi du học; giúp Tòa Giám mục; giúp nhà Chung giáo phận; hoặc đã nghỉ hưu). 
  • 117. 123 giáo dân, khoảng 4, 8% dân số trong giáo phận. 




V. KẾT LUẬN



Giáo hội là nhiệm thể Chúa Giêsu. Chúa vẫn đang chịu khổ nạn và phục sinh để mang ơn cứu rỗi cho thế giới. 

Giáo Hội Việt Nam cũng được mời gọi chia sẻ vào chức vụ tư tế, tiên tri và mục tử của Chúa Giêsu, để trước tiên đem lại ơn thánh hóa và cứu độ cho dân tộc Việt Nam. 

Và con đường mà chúng ta phải đi, là tiếp tục nối dài sứ vụ của Chúa Giêsu, theo hướng dẫn của Hội Thánh. Cách riêng, tại Việt Nam, những hướng dẫn cụ thể đã được các Đức Giám mục Việt Nam khẳng định trong lá thư chung ngày 1. 5. 1980: 

"Là Hội Thánh trong lòng dân tộc Việt Nam, chúng ta quyết tâm gắn bó với vận mạng quê hương, noi theo truyền thống Dân Tộc, hòa mình vào cuộc sống hiện tại của đất nớc. Công Đồng dạy rằng: 'Hội Thánh phải đồng tiến với toàn thể nhân loại và cùng chia sẻ một số phận trần gian với thế giới' (MV 40, 2). Vậy chúng ta phải đồng hành với dân tộc mình, cùng chia sẻ một cộng đồng sinh mạng với dân tộc mình, vì quê hương này là nơi chúng ta được Thiên Chúa mời gọi để sống làm con người. Đất nước này là lòng mẹ cưu mang chúng ta trong quá trình thực hiện ơn gọi làm con Thiên Chúa. Dân tộc này là Cộng Đồng mà Chúa trao cho chúng ta, để phục vụ vừa tính cách là công dân, vừa là thành phần dân Chúa. 
Sự gắn bó và hòa mình này đưa tới những nhiệm vụ cụ thể, mà chúng ta có thể tóm lại trong hai điểm chính:

1/ Tích cực góp phần cùng đồng bào cả nước bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. 

2/ Xây dựng trong Hội Thánh một nếp sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp với truyền thống dân tộc". 

VŨ PHƯƠNG BẰNG
Next previous home